Posted on Leave a comment

Làng nghề đan đó Thủ Sỹ

Làng đan đó Thủ Sỹ

Thủ Sỹ, Tiên Lữ, Hưng Yên

Giới thiệu về làng Thủ Sỹ

Xã Thủ Sỹ, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, cách Hà Nội khoảng 60km. Từ tỉnh lộ rẽ vào, Thủ Sỹ hiện ra với hình ảnh làng quê đậm chất Bắc bộ với những mái ngói thâm nâu, nếp nhà ba gian xưa cũ và những lũy tre xanh, tạo nên một khung cảnh làng quê thanh bình, yên ả. Ở Thủ Sỹ có khoảng 500 người làm nghề đan đó, trong đó hai thôn có nghề phát triển nhất là Nội Lăng và Tất Viên. Người dân Thủ Sỹ gắn bó với nghề đan đó từ rất lâu. Các bậc cao niên trong làng cho biết người Thủ Sỹ biết đến nghề đan đó từ cách đây khoảng hơn 2 thế kỷ.

Làng nghề đan đó 200 tuổi

Ghé thăm các gia đình trong thôn đều có thể thấy cảnh các cụ ông, cụ bà ngồi trước hiên, đôi bàn tay vừa thoăn thoắt đan đó, vừa vui vẻ kể cho nhau nghe những câu chuyện gia đình, làng xóm. Các cụ kể rằng trước kia, mỗi độ nông nhàn, ở Thủ Sỹ, nhà nào cũng đan đó, mọi người có thể ngồi đan đó cả ngày. Cả làng rộn ràng tiếng chẻ tre, chẻ nứa, khoảng sân rộng nhà nào cũng đầy những thân đó, những nan tre, những chiếc đó thành phẩm… Trước sân nhà hay dưới những tán lá nhãn, mọi người sẽ được ngắm nhìn những con người tụ họp tập trung đan đó, chút chút lại rộ lên tiếng cười đùa vui giữa không gian yên ả, thanh bình biết nhường nào.

Hàng xuất khẩu

Hiện nay, những sản phẩm làm từ tre, nứa rất được ưa chuộng trong việc trang trí, làm đồ nội thất. Sản phẩm không những được ưa chuộng ở trong nước mà còn được xuất khẩu ra nước ngoài. Có những đoàn khách từ Ấn Độ, Đức hay Mỹ về đây rất thích và đặt hàng với số lượng lớn. Sẽ không quá khi nói những chiếc đó là đặc trưng riêng của vùng đất Thủ Sỹ này. Rời ruộng đồng, rời bàn tay cày cuốc là người già, phụ nữ và thanh niên trai tráng lại tất bật phơi nan, vót tre, đan đó, kết chùm…Tất cả góp phần tạo nên một bức tranh làng nghề đặc sắc. Dù chỉ là nghề phụ nhưng đan đó không phụ công người dân Thủ Sỹ. Với khoảng 650.000 chiếc đó có mặt tại thị trường mỗi năm, người dân Thủ Sỹ có thêm đến 50% thu nhập trang trải cuộc sống lúc nông nhàn.

Sự hiếu khách của người Thủ Sỹ

Posted on Leave a comment

Làng hương Thôn Cao

Làng hương Thôn Cao

Thôn Cao, Bảo Khê, Hưng Yên

 Thôn Cao (Hưng Yên) được ví như “cái nôi” của nghề làm hương Việt Nam. Nơi đây lưu giữ những nét đẹp tín ngưỡng truyền thống của người Việt từ bao đời.

Thôn Cao và những nét riêng trong nghề làm hương

Làng hương Thôn Cao cách Hà Nội khoảng 40km, thuộc địa phận xã Bảo Khê, Thành phố Hưng Yên (tỉnh Hưng Yên), nằm sát ngay đê tả ngạn Sông Hồng. Hương Thôn Cao nổi tiếng mang mùi hương nhẹ thanh, mùi thơm lưu giữ lâu mà hiếm có hương ở nơi nào có được.

Theo tương truyền, vào thế kỷ XVIII, bà Đào Thị Khương đi buôn bán và học được nghề làm hương, khi trở về đã truyền dạy lại cho người dân trong làng. Vì vậy, ngày 22/8 âm lịch hằng năm, được coi là ngày giỗ tổ của làng, cũng như là ngày tưởng nhớ công ơn lớn lao của bà Đào Thị Khương.

Những ngày cuối xuân, đi dọc từ làng trên xóm dưới, khắp nơi trên mảnh đất Thôn Cao đều phảng phất mùi hương của thuốc bắc và thảo mộc. Trên khắp sân vườn của từng hộ gia đình phơi hương tràn ngập những sắc đỏ vàng của cây hương. Mỗi cây hương đều được các nhân công chăm chút, tỉ mỉ chế tác.

Làm hương - nghề của cha ông thay đổi cuộc sống nhiều gia đình

Mặc dù những bài thuốc chế tác, mẫu mã sản xuất ở những hộ gia đình là khác nhau, tuy nhiên trong mỗi thành phẩm được sản xuất. người dân thôn Cao luôn hướng về sự sáng tạo và phục vụ tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng. Các hộ sản xuất nhạy bén áp dụng các máy móc hiện đại để đẩy mạnh tiến độ sản xuất hương, nhằm tăng năng suất lao động và sản phẩm đến với người tiêu dùng chất lượng hơn. Bên cạnh đó, việc lưu truyền và tiếp nối nghề làm hương truyền thống vẫn luôn được các hộ sản xuất đặt lên hàng đầu. Nơi đây như “cái nôi” lưu truyền nét đẹp tín ngưỡng của người Việt.

Thôn Cao trở thành làng nghề sản xuất hương lớn nhất miền Bắc, các sản phẩm hương được sản xuất nơi đây đã được xuất khẩu sang nhiều nơi: Campuchia, Ấn Độ, Trung Quốc… Nhiều người dân thôn Cao đã và đang mang nghề truyền thống của làng mình đến khắp các vùng để truyền bá và phát triển.

Mỗi người dân Thôn Cao luôn có chung một tâm niệm: Làm hương là nghề của tiên tổ và nghề ấy còn liên quan tới tín ngưỡng, tâm linh thì không được làm cẩu thả và phải đưa cái tâm của mình vào từng sản phẩm. Chính vì vậy, hương Thôn Cao trở thành một thương hiệu uy tín, chất lượng phục vụ tâm linh tín ngưỡng, và trở thành thương hiệu lưu giữ nét đẹp tín ngưỡng người Việt.

Posted on Leave a comment

Làng đúc đồng Lộng Thượng

Làng nghề đúc đồng Lộng Thượng

Vùng đất Đại Đồng thuộc huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, không chỉ nổi tiếng với quần thể di tích làng Nôm nhuốm màu thời gian với hơn 200 năm tuổi đời, hay những ngôi nhà cổ năm gian mang lối kiến trúc đậm nét đặc trưng của làng Việt cổ xưa, mà nơi đây còn tồn tại một “báu vật,” được những người con của làng chung tay gìn giữ qua hàng trăm năm. Đó chính là nghề đúc đồng đã trải qua biết bao biến cố thăng trầm để ghi dấu ấn trong lịch sử của vùng đất kinh Bắc mà mỗi khi nhắc đến, người dân làng Rồng Lộng Thượng không khỏi tự hào về truyền thống quý báu của cha ông.

Đất và người làng Nôm nổi tiếng với câu ca dao:

                     “Đồng nát thì về cầu Nôm

                  Con gái nỏ mồm thì về với cha”

Cái nôi” của nghề đúc đồng xưa…

   Theo lời kể của các bậc cao niên trong làng, từ thời xa xưa, người dân làng Nôm nổi tiếng với nghề truyền thống là trồng lúa nước. Do đất nông nghiệp của làng bị ngập úng quanh năm, người làng Nôm sớm có xu hướng thoát ly nông nghiệp, dần trở thành đầu mối phân phối nguyên liệu cho các làng nghề đúc đồng. Trải qua nhiều thời gian, nghề đúc đồng của làng được hình thành.

   Từ đôi bàn tay khéo léo của những người thợ tài hoa, các sản phẩm đồ đồng đã góp phần tạo nên nét đẹp văn hóa của một làng nghề nổi tiếng chốn kinh thành Thăng Long xưa. Ngày nay, làng Lộng Thượng đã được mở rộng sản xuất và phân công hóa ngành nghề. Các hộ sản xuất đã liên kết với nhau thành lập các phường sản xuất riêng theo từng công đoạn, từng loại mặt hàng, như: xưởng làm mâm, xưởng làm chậu, xưởng đúc đồ thờ cúng, xưởng đúc tượng….

     Nhờ có sự tổ chức hoàn chỉnh thành một dây chuyền sản xuất, nghề đúc đồng của làng đang ngày càng phát triển. Sản phẩm của làng Lộng Thượng đã có chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Lớp nghệ nhân, thợ trẻ trong làng đã bảo tồn và phát huy tinh hoa của thế hệ ông cha đi trước.


    Bên cạnh giá trị tinh thần to lớn, nghề truyền thống của cha ông còn đem lại giá trị vật chất cho người dân làng Rồng. Áp dụng những phương pháp mới, các hộ làm nghề sản xuất không chỉ đảm bảo được các nhu cầu cơ bản cho gia đình, giải quyết được công ăn việc làm cho chính người dân địa phương, mà còn góp phần gìn giữ một nét văn hoá độc đáo riêng của làng quê Việt Nam.

Posted on Leave a comment

Đền Chử Đồng Tử (Đền Dạ Trạch – Đa Hòa)

Đền Đa Hòa - Dạ Trạch

1. Truyền thuyết về Chử Đồng Tử tại 2 ngôi đền

Tương truyền, Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Cù Vân, ven sông Hồng. Nhà nghèo, 2 cha con chỉ còn lại một chiếc khố, phải thay nhau mà mặc. Lúc người cha lâm chung, ông gọi con lại bảo rằng hãy giữ lấy chiếc khố. Thương cha, Chử Đồng Tử liệm khố cho cha, còn mình chịu cảnh không khố, kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền để bán cá hoặc xin ăn. 

Thời ấy, Hùng Duệ Vương (vị vua Hùng thứ 18) có con gái tên là Tiên Dung, thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm, thuyền rồng của Tiên Dung theo sông Hồng đến vùng ven sông gần Chử Xá. Nghe tiếng huyên náo, Chử Đồng Tử vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bãi cát ven sông để tắm. Ngờ đâu đúng ngay chỗ nấp của Chử Đồng Tử. Nước xối để lộ thân hình Chử Đồng Tử. Tiên Dung kinh ngạc, hỏi han, nghĩ ngợi, rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng

Dù Hùng Vương không đồng ý, Tiên Dung vẫn ở lại với Chử Đồng Tử. Cả hai bắt đầu buôn bán, mở rộng thương mại dọc sông Hồng và lập các đoàn thuyền buôn lớn, giúp vùng ven sông trở nên phát triển thịnh vượng. Chử Đồng Tử trở thành một thương gia giàu có, truyền bá tri thức và kinh nghiệm cho người dân.

 Khi nghe về sự thần phục của dân đối với Chử Đồng Tử, Hùng Vương cho quân tìm đến nhưng thấy một quần thể cung điện rực rỡ, rồi biến mất vào sáng hôm sau. Hùng Vương truyền lập đền thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung, cùng nhiều địa danh gắn liền như bãi Chử Đồng Tử, đầm Nhất Dạ Trạch và chợ Hà Thị. 

Để ghi nhớ công tích của ba vị, dân trong cả vùng hạ lưu sông Hồng, như Hưng Yên, Hà Nội, Hà Nam đã lập đền thờ. Hưng Yên là nơi có nhiều đền nhất, tới 45 làng cùng thờ. Trong số ấy, có hai ngôi đền nổi tiếng nhất thờ Đức Thánh Chử Đồng Tử là đền Đa Hòa và đền Dạ Trạch.

2. Đền Hóa Dạ Trạch

Đền Hóa Dạ Trạch tọa lạc tại thôn Yên Vĩnh, Xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, thờ Chử Đồng Tử, nhị vị phu nhân và Triệu Việt Vương ( Triệu Quang Phục).

 Đền Hóa ở sâu trong vùng đầm Dạ Trạch, nổi tiếng thâm nghiêm và linh thiêng. Nơi đây vẫn còn giữ được những cây cổ thụ, tạo cho đền Hóa một vẻ đẹp thâm u, huyền bí, thoát tục. Cảm nhận không khí linh thiêng trong đền quyện mùi nhang trầm, hương hoa, mà ở đây yên tĩnh dịu mát. Đền có tên gọi là Đền Hóa Dạ Trạch vì tương truyền đây chính là nền lâu đài thành quách xưa của Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân sau khi ba vị hóa về trời. 

Du khách tới đây sẽ được ngắm nhìn tuyệt tác của các nghệ nhân được thể hiện ở kiến trúc của ngôi đền. Đền được xây dựng theo kiểu chữ Công (工), mái khắc nhiều hình long, phượng rất đẹp, gồm ba gian. 

 Kiến trúc gỗ bên trong đã sờn cũ, nhuốm màu thời gian càng tăng vẻ đẹp cổ kính. Những cột gỗ lim to nay vẫn còn chắc chắn. Các bức hoành phi câu đối, sự tích tôn vinh Thánh Chử Đồng Tử vẫn còn hiện diện.

Để ghi nhớ công ơn, hàng năm người dân tổ chức lễ hội Chử Đồng Tử từ ngày mùng 10 tháng Chạp, đây là một trong 16 lễ hội lớn nhất cả nước, thể hiện rõ nét văn hóa nông nghiệp vùng đồng bằng.

3. Những điều thú vị về đền Hóa Dạ Trạch​

Đền Hóa Dạ Trạch được trùng tu cách đây 100 năm, ao đầm xung quanh được lấp kín, chỉ còn lại hồ bán nguyệt nhỏ, bước lên đền hôm nay chỉ phải leo 4 bậc. Đền thẳng hướng chính Đông, xây theo kiểu chữ “Công” có 3 tòa 5 gian, từ xưa là kiến trúc trang hoàng lộng lẫy.

Đối diện với chính điện, qua hết sân đền là lầu chuông, bia. Chuông được đúc năm Thành Thái 1902 với tên gọi “Dạ Trạch từ chung”. Sân đền rộng, ngoài chính điện, lầu chuông còn có một dãy nhà xây giữa sân đền. Thời kháng chiến chống Pháp từng là nơi đóng quân luyện võ của quân ta.

Gian chính điện thờ, bên trái là vợ thứ nhất công chúa Tiên Dung, bên phải là vợ thứ hai công chúa Tây Sa.

Vườn nhãn lâu năm ở khuôn viên đền

4. Đền Đa Hòa

Ngôi đền nổi tiếng gắn với truyền thuyết về tình yêu đẹp nên thơ

Đức thánh Chử Đồng Tử, một vị “Tứ bất tử” trong tín ngưỡng Việt Nam được thờ phụng ở nhiều nơi. Chỉ riêng ở ven sông Hồng, theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có tới 72 đền thờ ngài. Nhưng đền Đa Hòa ở xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên là đền chính – Đa Hòa chính từ

Ngôi đền gồm 18 công trình lớn, nhỏ với tổng diện tích gần 19 nghìn mét vuông. Con số 18 khiến người đời sau nhớ đến công chúa Tiên Dung khi gặp và kết duyên với Chử Đồng Tử lúc 18 tuổi và là con vua Hùng Vương thứ 18. Các mái đền mang hình thuyền rồng cách điệu. Từ trên cao nhìn xuống, ngôi đền giống như đoàn thuyền đang quần tụ dập dìu trên sông nước. Người ta bảo rằng, ngài tiến sĩ nho học tài hoa, tinh tế khi thiết kế đã gửi gắm ý tưởng về ngôi đền gợi nhớ cảnh đoàn thuyền của công chúa Tiên Dung đang du ngoạn trên sóng nước sông Hồng thuở nào…

Ngay bên ngoài đền là nhà Bia tám mái uy nghi, đối diện với bãi Tự Nhiên- nơi nên duyên của Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Khu giữa của đền có gác chuông và gác khánh chứa 2 bảo vật quý là chuông và khánh được đúc, tạc từ thời Nguyễn. Trung tâm của đền là tòa Thiên hương trang nghiêm, bề thế, hai tầng tám mái, trạm trổ vô cùng tinh xảo, kỳ công…

Ấn tượng với du khách hơn cả là các pho tượng đức thánh Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân đặt ở hậu cung, đều được đúc bằng đồng, tầm vóc cỡ như người thật. Và có lẽ, thu hút sự chú ý của du khách ở ngôi đền cổ kính ven bờ sông Hồng bốn mùa đỏ phù sa còn là hình ảnh hàng cây gạo trăm tuổi và những cây cổ thụ sừng sững, soi bóng bên sông hay rợp tán trong đền. 

Theo đánh giá của các nhà chuyên môn, toàn bộ kiến trúc ngôi đền toát lên ý tưởng và cảm hứng về câu chuyện tình bất tử. Đây không chỉ là một di tích lưu truyền và lan toả về một thiên tình sử hàng ngàn năm nay mang ý nghĩa nhân văn cao đẹp mà còn có giá trị đặc biệt về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời Nguyễn. Các nghi thức tế lễ của lễ hội Chử Đồng Tử -Tiên Dung vào mùa xuân cũng sở hữu những nét văn hóa cực kỳ đặc sắc, hấp dẫn, chỉ nơi đây mới có.

Posted on Leave a comment

Văn Miếu Xích Đằng

Văn miếu Xích Đằng

Thành phố Hưng Yên, Tỉnh Hưng Yên

Văn miếu Xích Đằng Hưng Yên

biểu tượng vùng đất khoa bảng

  Văn miếu Xích Đằng được biết đến là một di tích quan trọng thuộc quần thể di tích Phố Hiến, tại phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên (Hưng Yên). Với gần 400 năm tồn tại, ghi danh 161 vị đỗ đại khoa của trấn Sơn Nam thượng, Văn miếu Xích Đằng đã trở thành biểu tượng cho nền văn hiến và tinh thần hiếu học của mảnh đất Phố Hiến khi xưa.

Thế kỷ 17, để chấn hưng lại đạo Nho, triều đình nhà Lê đã cho thành lập nhiều trường học bên ngoài trường Quốc Tử Giám ở các trấn. Trấn Sơn Nam khi ấy gồm các tỉnh: Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình và một phần đất của Hà Nội và Hưng Yên. Văn miếu Sơn Nam (văn miếu Xích Đằng khi đó) được xây dựng vừa làm nơi để thờ tự các bậc hiền nho, vừa là nơi tổ chức các cuộc thi hương và sát hạch thí sinh đi dự kỳ thi hương.

Khuôn viên văn miếu rộng 6.000 m2, bao gồm các công trình kiến trúc: tam quan, lầu chuông, lầu khánh, hai dãy tả-hữu vu, khu chính và khu tháp thờ. Tam quan Văn miếu xây dựng theo kiến trúc “chồng diêm hai tầng tám mái”. Đây là công trình kiến trúc đặc sắc vẫn giữ nguyên vẹn từ khi xây dựng và còn được lấy làm biểu tượng tỉnh Hưng Yên. Khác với các văn miếu khác, chỉ riêng Văn miếu Xích Đằng có khánh đá và chuông đồng được đúc vào năm 1803 và 1804. Khu nội tự Văn miếu Xích Đằng được xây kiểu chữ Tam, gồm: tiền tế, trung từ và hậu cung, kiến trúc giống nhau theo kiểu vì kèo trụ trốn.

Khác với cách bài trí của các văn miếu khác, ở văn miếu Hưng Yên, tượng thầy giáo Chu Văn An được đặt thờ ngay ở phía giữa khu đại bái, còn tượng Đức Khổng Tử và các vị chư hiền nho gia được đặt thờ trong phần hậu cung. Điều này cho thấy sự kính trọng, vinh danh tấm lòng, đức độ người thầy lỗi lạc muôn đời của nền giáo dục Việt Nam mang tên Chu Văn An.

Hiện vật quý giá nhất trong văn miếu còn lưu giữ được đến ngày nay đó chính là chín tấm bia đá trong đó có tám tấm dựng năm Đồng Khánh 1888, và một tấm dựng năm Bảo Đại năm 1943. Trên chín tấm bia có ghi danh 161 vị đỗ đại khoa ở trấn Sơn Nam thượng xưa, trong đó có 138 vị ở Hưng Yên và 23 vị ở Thái Bình

No Images Found!

Posted on Leave a comment

Chùa Chuông

Chùa Chuông

Phố Hiến đệ nhất danh lam

Chẳng cần phải đến thành phố Huế mộng mơ để được chiêm ngưỡng kinh thành Huế nguy nga. Ngay tại vùng đất Hưng Yên bình yên cũng có một công trình cổ kính được ví như một phiên bản của Kinh thành Huế thu nhỏ. Đó chính là chùa Chuông Hưng Yên. Chùa Chuông còn được gọi với một tên gọi khác là Kim Chung Tự. Nằm ngay tại thôn Nhân Dục, thuộc quần thể di tích Phố Hiến. Theo thời gian, ngôi chùa ngày càng trở nên cố kính và thu hút đông đảo nhiều du khách ghé thăm. 

Trong chùa hiện đang cất giữ nhiều di cổ giá tri như: câu đối, hoành phi, bia đá, đồ thờ, trong đó bia “Kim Chung tự thạch bi ký” dựng năm 1711 mô tả vị trí cảnh quan trong chùa và người có công tu tạo. Qua di vật này, các nhà nghiên cứu đã đoán được có một con đường thiên lý thông thương giữa Thăng Long và Phố Hiến nằm ngay ở cửa chùa. Ngoài ra còn ghi nhận thời điểm đó phố Hiến gồm tất cả là 12 phường. 

Ngôi chùa cũng là một trong 16 di tích tiêu biểu nhất trong Quần thể di tích “Quốc gia đặc biệt khu di tích Phố Hiến”.

Posted on Leave a comment

Làng Nôm

Huyện Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên

Làng Nôm

Ngôi làng cổ đậm chất Bắc Bộ

Khám phá Làng Nôm – một ngôi làng tồn tại hơn 200 năm tại xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, là một trải nghiệm đầy thú vị, nơi bạn có thể chiêm ngưỡng sự bảo tồn của những nét đặc trưng nguyên sơ của làng cổ Việt Nam.

Làng giống như những gì người ta vẫn hình dung về ngôi làng vùng Bắc Bộ ngày xưa với đình, giếng nước, cây đa cổ thụ và những con đường gạch đỏ, cổng nhà cổ hiếm hoi.

Điều đặc biệt ấn tượng với du khách là ngôi làng vẫn duy trì nếp sống thôn quê mộc mạc bao đời nay, ít bị ảnh hưởng bởi đô thị hóa. Với vẻ đẹp “bền vững” qua thời gian, du lịch làng Nôm Hưng Yên cũng được nhiều người quan tâm tới.

Dời xa phố thị, tới một làng quê nhỏ, bạn sẽ thấy vừa quen và lạ. Quen như ở chính ngôi nhà mình, lạ bởi một miền đất mới. Ở làng Nôm, vẻ đẹp truyền thông dung dị như cây đa, giếng nước, mái đình vẫn được gìn giữ. Qua cánh cổng làng rêu phong, khung cảnh bên trong làng mang đặc trưng của làng quê cổ Việt Nam. Các khu nhà nhỏ nhắn đều nhuốm màu thời gian, hoạt động thường nhật của người dân diễn ra bình lặng, yên ả.

Nét đẹp làng quê Bắc Bộ được lưu giữ nguyên vẹn tại làng Nôm Hưng Yên

Đặc biệt hơn cả, nơi đây đang lưu giữ rất nhiều di tích cổ có niên đại hàng chục đến hàng trăm năm. Từ cổng làng, đường đi đến bức tường đều còn nguyên dạng. Về đây, du khách sẽ có cảm giác như hàng trăm năm qua chỉ là một giấc mơ ngắn ngủi. Cho dù thời gian có trôi qua bao lâu đi chăng nữa thì những giá trị tinh túy nguyên sơ nhất vẫn không hề thay đổi.

 

Đình Đại Hồng

Kho báu kiến trúc trăm năm

Mái đình mang đậm nét đẹp của kiến trúc phương Đông tọa lạc tại “báu vật trăm năm” làng Nôm Hưng Yên cũng chính là một điểm du lịch thu hút nhiều du khách.

Nơi đây thờ Thánh Tam Giang – một vị tướng tài ba đã có công lớn giúp Hai Bà Trưng dẹp giặc, cứu nước. Vì thế, đình Đại Đồng còn được gọi với cái tên mộc mạc là đình Nôm hay đình Tam Giang theo tên của vị tướng.

Đình Đại Đồng chẳng biết tự bao giờ đã trở thành một địa điểm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người dân làng Nôm. Nhất là vào mùng 10 tháng 8 âm lịch hàng năm, lễ hội ngày mất của Thánh Tam Giang, đình tổ chức lễ hội làng Nôm tưng bừng đã thu hút được đông đảo du khách trong và ngoài nước ghé thăm.

Nét rêu phỏng của đình là một trong những yếu tố để đẩy mạnh “du lịch di sản” ở làng Nôm.

Những họa tiết xuất hiện trong khuôn viên chùa Nôm đều thể hiện được nét đẹp tinh tế và sự điêu khắc công phu của các nghệ nhân. Ẩn dưới những cây cổ thụ lớn niên đại nhiều năm là ngôi chùa cổ kính, rêu phong.

Chùa Nôm

Nét đẹp cổ xưa được lưu giữ nguyên vẹn

Ngôi chùa cổ Chùa Nôm là điểm đến khiến bạn hoàn toàn phải kinh ngạc bởi vẻ đẹp văn hóa đặc sắc. Với các công trình như gác Chuông, gác Trống, tam quan, nhà Mẫu, nhà Tổ, tòa Tam bảo, sân… Chùa Nôm là một bảo tàng kiến trúc cổ với quy mô ban đầu được bảo toàn trọn vẹn. Cảm giác yên bình, giản dị tại đây là điều không thể bỏ qua.

  • Không nên mặc những bộ trang phục quá màu mè hoặc phản cảm làm mất đi sự tôn nghiêm ở chùa.

  • Sau khi đến chùa bạn nên thành tâm cầu nguyện và tận hưởng không gian linh thiêng, đừng sa đà vào việc mải mê chụp ảnh.

  • Tuyệt đối không nên đụng chạm hay lấy bất cứ vật dụng gì trong chùa nếu không được sự cho phép của các sư.

  • Không dẫm đạp lên hoa cỏ cây cối, bàn ghế trong chùa, vứt rác đúng nơi quy định để không gây ô nhiễm môi trường.

  • Xin phép với ban quản lý nhà chùa nếu muốn quay phim, chụp hình, nhất là sử dụng cho mục đích thương mại.

Hãy đến với chùa Nôm một lần để chiêm ngưỡng tận mắt cổ tự độc đáo này. Khuôn viên rộng lớn với các gian thờ phụ và các hồ nước bao quanh mang đến một nét cổ kính, trầm mặc mà không kém phần nên thơ.